Một di chúc được xem là hợp pháp nếu đầy đủ các yếu tố sau đây:
Điều kiện về năng lực hành vi dân sự của người để lại di chúc:
Năng lực hành vi dân sự là khả năng của cá nhân có thể tự mình xác lập giao dịch dân sự và chịu trách nhiệm đối với sự xác lập giao dịch đó. Pháp luật quy định điều kiện để di chúc hợp pháp thì người lập di chúc phải minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép.
Hình thức của di chúc
Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng (Điều 649 BLDS 2005).
Di chúc bằng văn bản: di chúc bằng văn bản cũng được chia làm nhiều loại (di chúc bằng văn bản không có người làm chứng; di chúc bằng văn bản có người làm chứng; di chúc bằng văn bản có công chứng; di chúc bằng văn bản có chứng thực)
Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng thì người lập di chúc phải tự tay viết và kí hay điểm chỉ vào di chúc đó.
Di chúc bằng văn bản có người làm chứng: nếu người để lại di sản không thể viết di chúc thì có thể để người khác viết, nhưng phải có tối thiểu 2 người làm chứng và phải kí hay điểm chỉ vào di chúc trước mặt 2 người làm chứng, sau đó 2 người làm chứng sẽ kí xác nhận vào di chúc.
Di chúc bằng văn bản có công chứng hay chứng thực: được lập tại cơ quan công chứng hay UBND xã, phường, thị trấn. Tại đây, người để lại di sản sẽ đọc nội dung di chúc cho Công chứng viên hay cán bộ có thẩm quyền chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn, người này sẽ ghi nhận lại nội dung của di chúc. Cuối cùng người có nguyện vọng lập di chúc sẽ điểm chỉ hay kí tên xác nhận nội dung của di chúc là chính xác, thể hiện đúng ý chí của mình. Nếu không thể đọc hay nghe được bản di chúc, không thể kí hay điểm chỉ được thì cần nhờ đến người làm chứng. Người làm chứng phải ký xác nhận trước mặt Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.
Di chúc miệng: Di chúc miệng được lập trong trường hợp tính mạng của một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản.
Nếu sau ba tháng kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc vẫn còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng sẽ mặc nhiên bị hủy bỏ (Điều 651 BLDS 2005).
Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực.
Di chúc do người làm chứng ghi chép cũng phải tuân theo quy định của pháp luật về nội dung của di chúc.
Nội dung của di chúc bằng:
Ngày, tháng, năm lập di chúc;
Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
Di sản để lại và nơi có di sản;
Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.
Ngoài ra, di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.
Lưu ý:
Người thuộc dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng chữ viết hoặc tiếng nói của dân tộc mình.
Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
Trong trường hợp tài sản thừa kế là là tài sản có đăng kí quyền sở hữu (như bất động sản, ô tô, xe máy…) thì để tránh phức tạp về thủ tục hưởng di sản thừa kế, di chúc nên được lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
Vì pháp luật quy định người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế di chúc. Do đó di chúc được lập sau sẽ có giá trị pháp lý hủy bỏ phần di chúc lập trước có nội dung trái với di chúc lập sau.