Gần đây, Công ty A bị một số chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản tại Tòa Kinh tế TAND TP.HCM. Sau khi thụ lý, tòa đã yêu cầu phía Công ty A nộp các báo cáo, tài liệu (tình hình hoạt động kinh doanh, các biện pháp đã thực hiện, bảng kê chi tiết tài sản...) theo luật định.
Lúng túng khi DN không hợp tác
Tuy nhiên, phía Công ty A không hợp tác, cố tình tìm lý do dây dưa kéo dài, không nộp báo cáo, tài liệu theo yêu cầu của tòa. Vì vậy, tòa đã gặp khó khăn trong việc ra quyết định mở thủ tục phá sản và tiến hành các bước tố tụng tiếp theo.
Vướng mắc này đã được TAND Tối cao nhìn nhận. Theo TAND Tối cao, thực tế rất nhiều doanh nghiệp (DN) và hợp tác xã (HTX) không cung cấp được đầy đủ các tài liệu theo yêu cầu của các tòa địa phương. Hồ sơ pháp lý về các khoản nợ hết sức sơ sài, thiếu chứng cứ để trả nợ và thu nợ vì không được chủ nợ cùng người mang nợ đối chiếu... Cạnh đó, khoản 4 Điều 15 Luật Phá sản không quy định các báo cáo, tài liệu phải được DN và HTX thực hiện trong khoảng thời gian nào.
Về chuyện này, Phó Chánh tòa Kinh tế TAND TP.HCM Nguyễn Công Phú đề nghị Luật Phá sản cần bổ sung chế tài với chủ DN hoặc đại diện hợp pháp của DN, HTX nếu không hợp tác với tòa. Cụ thể: Nâng mức phạt từ 500.000 đồng đến 1 triệu đồng lên từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng khi các đối tượng trên có hành vi không xuất trình cho tòa các báo cáo, tài liệu trong hạn luật định. Mặt khác, cần bổ sung vào BLHS tội danh không chấp hành các quyết định, yêu cầu của tòa trong quá trình tiến hành các thủ tục phá sản dù đã bị xử phạt vi phạm hành chính.
Phí phá sản: Còn chưa rõ
Chủ nhiệm HTX B nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ra Tòa Kinh tế nhưng không có tiền nộp tạm ứng phí phá sản. Theo điểm b khoản 3 Điều 21 Luật Phá sản, HTX B sẽ được Nhà nước tạm ứng ngân sách nộp phí phá sản nếu HTX “có các tài sản khác”.
Thực tế, HTX B dù đã tạm ngưng hoạt động nhưng vẫn còn một số máy móc, thiết bị. Dù vậy, tòa vẫn lúng túng bởi quy định trên của luật chưa rõ ràng. Chẳng hạn, “tài sản khác” có giá trị tối thiểu là bao nhiêu, có cần xác định tính thanh khoản của tài sản hay không? Thực tế, nếu giá trị tài sản nhỏ hơn nhiều so với phí phá sản hay tài sản thuộc loại không thể bán thì sao? Trình tự, thủ tục thực hiện phí phá sản do ngân sách tạm ứng ra sao?
Theo Thẩm phán Nguyễn Công Phú, Điều 21 Luật Phá sản cần bổ sung rõ các điểm trên. Ngoài ra, người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải nộp tiền tạm ứng theo thông báo của tòa trước và sau khi tòa thụ lý đơn, trừ trường hợp người nộp đơn là người lao động. Bổ sung thêm quy định phí phá sản sẽ được hoàn trả cho người tạm ứng không phải là DN, HTX bị phá sản từ tài sản của DN, HTX bị phá sản...
Xem lại quyền nộp đơn yêu cầu
Ông Ngô Cường (Vụ Hợp tác Quốc tế - TAND Tối cao) góp ý: Pháp luật của phần lớn các nước đều quy định các tội phạm về phá sản. Việc xác định ai là người có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có ý nghĩa rất quan trọng. Ví dụ những người quản lý DN đã không nộp đơn theo đúng quy định khi công ty của họ ngừng thanh toán nợ, làm thiệt hại cho các chủ nợ thì có thể bị xem xét xử lý về hình sự. Vì thế, khi sửa đổi Luật Phá sản cần cân nhắc về vấn đề này.
Cũng theo ông Cường, cần xem xét lại về chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản trong một số trường hợp. Chẳng hạn, đối với DNNN thì nên giao quyền nộp đơn yêu cầu cho cơ quan có chức năng giám sát hoạt động của DN đó thay cho đại diện chủ sở hữu (Điều 16 Luật Phá sản). Đồng thời, cũng nên xem xét bỏ quy định về quyền nộp đơn của người lao động (Điều 14 Luật Phá sản) bởi lẽ quy định này có thể không phù hợp với tâm lý người lao động. Thông thường họ không muốn mất việc làm, do đó không lẽ họ lại yêu cầu “xóa bỏ” nơi họ làm việc.
Một chuyện khác, TAND Tối cao cho rằng khoản 1 Điều 13 Luật Phá sản chỉ quy định cho các chủ nợ “không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần” quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với DN, HTX. Như vậy là không công bằng và làm mất đi quyền lựa chọn phương thức đòi nợ của chủ nợ “có bảo đảm”. Trong khi đó, việc cho chủ nợ “có bảo đảm” quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản sẽ góp phần sớm phát hiện khả năng mất thanh toán của DN, HTX. Tòa có thể can thiệp sớm, giúp DN, HTX phục hồi hoạt động kinh doanh...
Ngoài ra, Luật Phá sản quy định người lao động không được tự nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản mà phải cử người đại diện hoặc thông qua đại diện công đoàn để thực hiện. Việc cử người đại diện trong luật quy định rất phức tạp, khó thực thi và gây ra nhiều khó khăn cho người lao động, cần xem lại để không vô hiệu hóa quy định này. Cạnh đó, nên bổ sung thêm quyền nộp đơn mở thủ tục phá sản của các cơ quan quản lý chuyên ngành như Ngân hàng Nhà nước, cơ quan Bảo hiểm tiền gửi, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước... Vì đây là các cơ quan giám sát hoạt động của DN hoạt động trong những lĩnh vực này nên sẽ sớm phát hiện nguy cơ mất khả năng thanh toán của DN.
Còn cứng nhắc Khoản 1 Điều 27 Luật Phá sản quy định kể từ thời điểm tòa thụ lý đơn yêu cầu giải quyết phá sản, tất cả bản án mà theo đó DN mắc nợ có nghĩa vụ thi hành đều bị tạm đình chỉ. Quy định này cơ bản là đúng nhưng còn cứng nhắc, không hợp lý trong một số trường hợp. Một thẩm phán Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM Không mở thủ tục phá sản Nên quy định cụ thể các trường hợp tòa ra quyết định không mở thủ tục phá sản, trong đó bao gồm các trường hợp sau: Người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản không nộp tiền tạm ứng phí phá sản. Người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (không phải là DN phá sản) rút đơn yêu cầu. DN không chấp hành đúng pháp luật kế toán (không lập sổ sách, chứng từ kế toán đầy đủ theo quy định) nên không có căn cứ xác định DN mất khả năng thanh toán nợ là do kinh doanh thua lỗ hay do cố ý làm thất thoát tài sản. Vắng mặt đại diện hợp pháp của DN mà kế toán trưởng hoặc người phụ trách kế toán của DN, HTX không còn làm việc tại DN, HTX hoặc còn đang làm việc nhưng từ chối tham gia tố tụng. Thẩm phán NGUYỄN CÔNG PHÚ, Phó Chánh tòa Kinh tế TAND TP.HCM |
HOÀNG YẾN